Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

Một số nguyên lý của tưới nhỏ giọt


Tưới nhỏ giọt giúp tập trung tưới trong vùng phát triển của bộ rễ

Rễ tập trung trong một phạm vi nhất định, tưới nhỏ giọt sẽ tập trung vào vùng này. Đồng thời nâng cao hiệu quả của việc hấp thu nước và chất dinh dưỡng.
Tuy nhiên, cần lưu ý mở rộng hoặc thêm vùng tưới cho cây trồng khi bộ rễ phát triển rộng ra theo thời gian.

Lợi ích của vùng khô (vùng không tưới)

Giảm sự phát triển của cỏ dại và chi phí diệt cỏ dại.
Ở vùng khô, nhân công và máy móc dễ dàng di chuyển hơn giúp tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, nếu đi ống mềm nổi trên bề mặt có thể gây trở ngại trong công tác chăm sóc cây trồng như xới đất, làm cỏ…

Lợi ích của vùng ướt (vùng có tưới)
Duy trì ẩm độ liên tục cho bộ rễ.
Cho phép không khí duy trì trong vùng ướt.
Tập trung rễ tích cực của cây trồng trong vùng ướt.
Ngăn ngừa sự phát triển độ mặn của đất trong vùng ướt.

Lưu ý mức độ thẩm thấu vùng ướt theo chất đất

Hình dạng của vùng ướt tuỳ thuộc vào đặc tính cấu tạo của đất.
Đối với đất nhẹ, nước phân bổ hẹp và sâu hơn.
Đối với đất nặng, nước phân bổ có hình giống như hình cầu.

Khoảng cách giữa đầu nhỏ giọt căn cứ theo chất đất.
Yêu cầu khoảng cách đầu nhỏ giọt cho đất nặng: 0.50 – 1.00 m.
Yêu cầu khoảng cách đầu nhỏ giọt cho đất vừa : 0.30 – 0.50 m.
Yêu cầu khoảng cách đầu nhỏ giọt cho đất nhẹ : 0.20 – 0.30 m.
Khoảng cách đầu nhỏ giọt được tính toán dựa trên kết cấu đất và yêu cầu của cây trồng.

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016

Đường Ninh Hòa triển khai đầu tư mô hình tưới tiết kiệm nước cho người trồng mía vụ 2014-2015

Ngày 14/3/2014, Công ty CP Đường Ninh Hòa tổ chức Hội nghị đầu bờ giới thiệu mô hình tưới tiết kiệm nước cho người trồng mía tham quan và ứng dụng. Tham dự Hội nghị có trên 90 đại biểu đại diện cho các hộ trồng mía khu vực Ninh Hòa, Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa và huyện M’Đrăk tỉnh Đăklăk.


Tại Hội nghị, công ty giới thiệu 2 mô hình tưới tiết kiệm nước gồm có: tưới bằng thiết bị ống phun mưa và tưới bằng thiết bị béc phun Nelson R33; với mô hình này người trồng mía có thể tận dụng nguồn nước sẵn có (sông, suối, ao, hồ, đập, …) để sử dụng bơm tưới, nhằm chủ động thời vụ trồng, chăm sóc mía góp phần nâng cao năng suất và chất lượng mía.

Để khuyến khích người trồng mía mạnh dạn đầu tư, vụ 2014-2015 công ty tập trung đầu tư vốn với mức kinh phí 25-30 triệu /hệ thống tưới (bao gồm máy nổ có công suất >15HP, đầu bơm cao áp, hệ thống ống, béc phun, ống phun, …); thời gian thu hồi vốn trong 3 năm và giảm 100% lãi suất đầu tư; tổng vốn đầu tư cho người trồng mía dự kiến 5 tỷ đồng cho khoảng 1.000 ha được tưới. Với hệ thống tưới tiết kiệm này người trồng mía có thể sử dụng tưới tối thiểu từ 3-5ha/ lần tưới, thời gian tưới 35-40 giờ/ 5ha, lượng nước tưới từ 900-1.500 m3, góp phần tăng năng suất tối thiểu từ 25-30% /diện tích có tưới và tăng thêm thu nhập cho người trồng mía từ 12-15 triệu đồng/ha.

Kết thúc Hội nghị, người trồng mía đồng tình hưởng ứng chính sách khuyến khích đầu tư của công ty và quyết tâm nhân rộng mô hình này trên diện tích tận dụng nguồn nước sẵn có tại chổ.

Trong thời gian tới công ty tiếp tục nhân rộng mô hình tưới tiết kiệm nước tại các địa bàn, dự kiến đến năm 2017 diện tích mía có tưới chiếm >50% diện tích toàn vùng nguyên liệu, đảm bảo năng suất bình quân > 65tấn /ha và sản lượng mía ép đạt > 800.000 tấn/vụ
.

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2016

Gợi ý một số giải pháp chống hạn cho Cà phê, hồ tiêu

Khu vực Tây Nguyên đang trong thời kỳ khô nắng đỉnh điểm, dưới đây là một số gợi ý từ Bộ NN và PTNT giúp phần nào khắc phục, duy trì qua mùa khô hạn.
Đối với cà phê

1. Nếu tưới gốc, lưu lượng nước nên duy trì 250-300 lít/gốc thay vì 400-600 lít/gốc như bà con thường áp dụng. Chu kỳ tưới 20-25 ngày
2. Tưới nhỏ giọt cuốn quanh gốc, lưu lượng 150-200 lít/gốc. Chu kỳ 20-25 ngày.
3. Sử dụng các loại phân bón lá có chữa Kẽm (Zn), bo (B), hoặc Nucafe từ 2-3 lần trong mùa khô để năng khả năng chịu hạn, chống rụng lá.
Đối với Hồ tiêu
1. Đối với cây trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, cần sử dụng lưới che nắng để giảm cường dộ ánh sáng trực xạ, giảm bốc hơi nước.
2. Tưới gốc 120 lít/gốc. Chu kỳ 2-3 ngày.
3. Tưới nhỏ giọt 20 lít/gốc. Chu kỳ 2-3 ngày.
Ngoài ra bà con cần tìm mọi biện pháp tích trữ nước, không phát triển vùng trồng ở những nơi không có nguồn nước tưới. Tích cực áp dụng kỹ thuật tưới nước tiết kiệm (tưới nhỏ giọt hoặc tưới phun mưa). Tưới đúng thời điểm, vừa đủ nước.
Kết hợp bón phân qua hệ thống tưới nhỏ giọt để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón. Duy trì hệ thống cây che bóng, đai rừng phòng hộ, trồng cây che phủ đất, trồng xen cây ăn quả phù hợp. Tăng cường bón phân hữu cơ nhằm nâng khả năng giữ ẩm và giữ phân của đất. Tỉa bớt cành nhánh nhằm hạn chế thoát hơi nước. Thường xuyên kiểm tra vườn phát hiện sớm dịch hại để phòng trừ kịp thời nhằm tăng khả năng chống chịu của cây trồng trong điều kiện khô hạn.
Được biết mùa khô năm nay, đến thời điểm hiện nay, toàn khu vực Tây Nguyên đã có gần 40.140 ha cà phê, 2.290 ha tiêu bị thiếu nước tưới, hơn 7.100 ha lúa phải dừng sản xuất, hơn 8.400 ha lúa Đông Xuân… bị mất trắng hoặc giảm năng suất từ 30 đến 70%.
Nếu tiếp tục không có mưa, diện tích cây trồng chính bị hạn, thiếu nước tưới lên đến 167.000 ha; trong đó 14.600 ha lúa và 152.760 ha cà phê bị ảnh hưởng.
Cuối tháng 2 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hỗ trợ 85,1 tỉ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2015 cho 6 tỉnh khắc phục hậu quả hạn hán và xâm nhập mặn.

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2016

Hướng dẫn về phân bón và tưới nước cho dâu tây

Việc cung cấp hướng dẫn theo quy chuẩn về tưới nước cho dâu tây rất khó do có nhiều mô hình trồng dẫn đến bố trí hệ thống tưới nước khác nhau. Mục đích của ghi chú này là giúp người trồng ở Tây Úc hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến yêu cầu mùa vụ, qua đó họ có thể điều chỉnh các hoạt động trồng trọt cho thích hợp.
Yêu cầu về phân bón đối với các loại dâu tây khác nhau là khác nhau mặc dù nhiều người trồng sử dụng chung một công thức cho tất cả các loại dâu tây.
Example of fertigation equipment used in strawberry production

Nước và đất

Nước tưới cho dâu tây cần có chất lượng thực sự tốt, bởi vì dâu tây rất nhạy cảm với muối, đặc biệt là clorua (chứ không phải natri).
Clorua sẽ bắt đầu làm suy giảm sản lượng ở mức rất thấp. Độ dẫn điện (EC) lý tưởng của nước tưới phải dưới 0,75dS/m (750uS/cm) hoặc tổng chất rắn hòa tan (TDS) 400mg/L.
Sản lượng sẽ giảm khoảng 25% nếu nước chứa 650mg/L TDS (1,20dS/m), và thậm chí hơn nếu nước chứa nhiều muối hơn.
Nếu nước chứa hơn 0,5 phần triệu (ppm) sắt, thì có thể cần phải có biện pháp xử lý nào đó để loại bỏ sắt nhằm tránh làm tắc vòi phun nhỏ giọt.
Độ pH của đất cần nằm trong khoảng từ 5,5 đến 7,5 (axit nhẹ đến trung tính). Nếu cần phải điều chỉnh độ pH, nên thực hiện điều này trước khi trồng bằng cách sử dụng vôi và/hoặc dolomite.
Không cần thiết hay nhất thiết phải áp dụng phân bón ni-tơ (N), kali (K), hoặc phốt pho (P) trước khi trồng nếu đã thực hiện tưới phân. Trong cát thô, chúng sẽ rửa trôi và bị lãng phí trước khi cây trồng phát triển đủ rễ để có thể hấp thụ chất dinh dưỡng. Lớp phủ nền của hỗn hợp nguyên tố vi lượng có thể được sử dụng trước khi trồng nếu muốn vì chúng khó bị rửa trôi hơn, nhưng cũng có thể được sử dụng thông qua tưới tiêu với phần còn lại của phân bón. Nếu thêm phân ủ vào đất, hãy thực hiện ngay trước khi trồng để tránh rửa trôi chất dinh dưỡng.
Nồng độ muối rất cao được quan sát thấy vào đầu mùa khi sử dụng phân ủ trước khi trồng. Điều này cần phải được nhận biết và giám sát, đặc biệt là với các loại giống nhạy cảm hơn như Fortuna.
Nồng độ cao của muối trong phân bón có thể gây hại cho rễ non và dễ bị nhiễm mầm bệnh, dẫn tới bệnh tật. Nồng độ ni-tơ cao vào đầu mùa sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của thân và lá cây nhưng gây ảnh hưởng đến việc ra hoa và quả.

Phân gia cầm

Sử dụng phân gia cầm thô bị cấm ở một số thành phố và huyện ở Đồng Bằng Ven Biển Swan, từ Gingin đến Harvey vì nó tạo môi trường thuận lợi cho loài ruồi sống trong chuồng trâu bò sinh sôi và phát triển, đây là loài gây hại nghiêm trọng cho động vật và con người. Phân gia cầm cũng chứa các chất dinh dưỡng dễ bị rửa trôi, vì vậy trong trường hợp sử dụng lớp phủ nền của phân bón NPK, lượng lớn phân bón sẽ bị lãng phí trước khi cây trồng hấp thụ được. Các sản phẩm khác như phân gà trộn và các loại phân trộn khác không nuôi loài ruồi sống trong chuồng trâu bò nhưng vẫn có thể rửa trôi chất dinh dưỡng như đề cập ở trên.
Khi tạo luống, phải đảm bảo đất được xới kỹ. Đất xốp sẽ giảm nước chảy lan ra hai bên và quá trình phát triển cây sẽ bị ảnh hưởng xấu.

Thực hành bón phân và tưới tiêu

Hướng dẫn sau đây được dựa trên nghiên cứu tiến hành ở Wanneroo trong nhiều năm. Với thực hành bón phân và tưới tiêu tốt và phụ thuộc vào giống cây trồng, dâu tây có thể mang đến năng suất ổn định tối đa 1,5 kg trái mỗi cây mỗi mùa vụ.
Năng suất bình quân trong ngành vào khoảng 0,50-0,75 kg nhưng có thể dễ dàng đạt năng suất 1 kg bằng cách tuân theo các hướng dẫn được khuyến nghị sau đây.

Hệ thống tưới tiêu

Vòi phun nước từ phía trên được sử dụng cho quá trình tăng trưởng ban đầu của cây trồng và làm mát cây trong thời tiết nóng, nhưng phương thức tưới nhỏ giọt được khuyến nghị trong suốt mùa vụ.
Tưới nhỏ giọt hiệu quả hơn vì sử dụng ít nước hơn và tưới đều hơn. Trái được giữ khô, làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.

Tưới nước từ phía trên để cây trồng được tăng trưởng chắc chắn

Việc tưới nước từ phía trên nên được sử dụng để ngăn phần thân bò mới trồng khỏi bị héo. Khi cây mới bắt đầu phát triển, chúng sẽ không có rễ phát triển. Việc giảm áp lực cây trồng (héo úa) sẽ thúc đẩy rễ hình thành nhanh hơn và các chất dinh dưỡng có thể được hấp thụ, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt.
Số lần và khoảng thời gian tưới từ phía trên phụ thuộc vào thời tiết và tình trạng phần thân bò khi trồng. Phần thân bò nhỏ gọn với lá nhỏ hơn cần tưới ít nước hơn bởi vì chúng có diện tích lá nhỏ hơn phần thân bò dài với lá lớn, dễ mất nước hơn.
Nhiều người trồng sử dụng cây “không lá”. Nhìn chung, chúng phát triển muộn hơn khoảng hai tuần so với cây có lá và có thể chịu được mức độ lạnh cao hơn. Chúng yếu hơn cây có lá nhưng vẫn cần làm mát từ phía trên.
Khi trồng cây vào tháng 2 hoặc đầu tháng 3, đòi hỏi phải làm mát từ 1 đến 4 lần một giờ trong suốt ngày nóng cho đến khi rễ bám chắc và việc tưới nhỏ giọt có hiệu quả.
Người trồng có thể sử dụng lượng tỉ lệ phân phối nước đáng kể trong suốt thời gian này và vì mục tiêu làm mát hơn là tưới tiêu, sử dụng vòi phun đầu ra thấp với kích thước giọt nhỏ hơn có thể giảm lượng nước sử dụng.
Việc làm mát và đồng nhất tưới tiêu tốt có thể đạt được bằng cách sử dụng đầu vòi phun nhỏ hơn với áp suất phù hợp. Bình phun vòi kép có thể sử dụng tối đa 1000l 1 giờ trong khi một số loại bình phun dòng thấp mới hơn có thể chỉ cần 500L để đạt được kết quả mong muốn.
Tưới nhỏ giọt cần được sử dụng phụ thêm tưới từ phía trên trong suốt quá trình trồng để thúc đẩy rễ bám chắc và ngăn ngừa đất bị khô giữa các hố trồng.
Cát ở Tây Úc có thể không thấm nước hoặc không ướt nếu độ ẩm đất không được duy trì, và hầu như không thể làm ẩm trở lại bằng cách tưới nhỏ giọt. Thậm chí khi đất cát ướt đều, nước lan ra không quá khoảng 15-18cm. Khi đất cát khô, nước chảy theo lối đi sẵn có và không thể lan ra, thậm chí với diện tích nhỏ.
Các yếu tố khác có thể có tác động lớn lên sự thẩm thấu của nước tưới phía trên và mưa, như là:
  • kích cỡ và hình dạng của hố trồng được bấm vào tấm nhựa
  • sự đồng đều của bề mặt luống; và
  • tấm nhựa được đặt chặt thế nào.

Tưới nhỏ giọt

Mô hình phổ biến nhất cho trồng dâu tây thương mại trên cát là hai đường ống tưới nhỏ giọt trên mỗi luống 4 hàng với mỗi đường ống được đặt giữa hai hàng cây bên ngoài.
Tuy nhiên, người trồng sử dụng một loạt các mô hình tưới tiêu và trồng gồm các luống 2, 3, và 4 hàng với 1, 2, hoặc thậm chí 3 hàng dải nhỏ giọt. Một số người trồng trồng 2 hàng thân cây ‘kép’ thay vì 4 hàng có khoảng cách bằng nhau tại mỗi luống.
Vùi nhẹ các đường ống dưới đất để chúng ở nguyên vị trí và không bị xê dịch. Điều này tạo cơ hội tốt nhất cho cây nhận được lượng nước và lượng phân bón ngang nhau.
Khoảng cách giữa vòi phun nhỏ giọt thường là 25 cm nhưng việc đặt gần hơn nếu được sắp xếp có hiệu quả sẽ dẫn tới việc tưới đều hơn và mang lại sản lượng và chất lượng tốt hơn.
Các cuộc thử nghiệm với màu nhuộm và giám sát tưới tiêu ở vùng Wanneroo chỉ ra rằng khối lượng tăng lên (thời gian dài hơn) sẽ không tăng mức lan ra của nước quá khoảng 15-18 cm tổng cộng hoặc 7,5-9 cm ở mỗi bên của vòi phun nhỏ giọt. Điều này chỉ ra rằng khoảng cách 15-20 cm giữa các vòi phun nhỏ giọt sẽ phân phối nước tưới đều hơn cho cây hơn là 25 cm.
Kinh nghiệm ở Wanneroo bao gồm các cuộc thử nghiệm với màu nhuộm cho thấy lợi thế về sản lượng đạt được với khoảng cách giữa các vòi phun nhỏ giọt là 10 cm nhưng điều đó không thực tế đối với nhiều người trồng.
Thời gian vận hành lâu hơn chỉ làm lãng phí nước (và phân bón) bởi nước thấm sâu hơn xuống mặt đất, đi qua vùng rễ.
Vấn đề đặt ra là rễ cây sẽ phát triển theo hướng nước trong lòng đất tới mức độ nào và có những thiệt hại gì đối với sản lượng, nếu có. Ở Florida, đất cũng là đất cát nhưng có tỉ lệ hạt phù sa mịn cao hơn, vì vậy sự di chuyển của nước sang hai bên tốt hơn. Các luống đất cao hơn 30 cm so với lối đi và người trồng muốn thúc đẩy rễ phát triển rộng ra nhằm che phủ luống như một vấn đề ưu tiên sau khi trồng, để tối đa hóa khả năng hấp thụ dinh dưỡng và hiệu quả.

Sự khác biệt giữa các giống cây trồng

Các giống dâu tây khác nhau có sức sống, diện tích lá và sản lượng trái khác nhau, do đó đòi hỏi lượng nước tưới tiêu và phân bón khác nhau. Ví dụ, Fortuna được công nhận là giống ít sức sống hơn, nhỏ hơn. Bộ rễ của nó không thể đâm sâu vào đất như Camarosa và Festival.
Hầu hết người trồng ở WA xem tất cả những giống này là như nhau nhưng đây không phải là lựa chọn tốt nhất, đặc biệt là đối với nước và phân bón.
Nghiên cứu tại Wanneroo đã chỉ ra rằng lịch tưới dựa trên sự bốc hơi nước độc lập không phù hợp với các giống dâu tây được trồng dưới lớp phủ nhựa màu đen, đường hầm cao, hoặc lớp phủ nhựa.

Yêu cầu tưới tiêu

Tình trạng bốc hơi nước và tác động của lượng mưa bị thay đổi bởi lớp phủ nhựa và chuông chụp cây hoặc đường hầm.
Khi trời mưa trong suốt những tháng mát hơn, người trồng thường giảm hoặc ngưng tưới nước vì tin rằng cây trồng hấp thụ nước chảy theo lối đi. Tuy nhiên, trên đất cát thô thì không phải như vậy. Nước chỉ xâm nhập vào luống đất khi lượng mưa lớn (25 mm hoặc hơn) nhưng chủ yếu nằm dưới vùng rễ và chủ yếu rửa trôi phân bón.
Theo dõi độ ẩm của đất là cần thiết để xác định tính hiệu quả của nước được sử dụng và tiềm năng nước trong đất. Thông tin về việc sử dụng cảm biến độ ẩm của đất theo mô hình tưới tiêu tinh chỉnh có thể tìm thấy ở đây.
Các nghiên cứu trước đây ở Tây Úc cho rằng việc thay thế 70% lượng bốc hơi đã đủ để đáp ứng nhu cầu cây trồng trong hầu hết mùa vụ. Kinh nghiệm gần đây hơn chỉ ra rằng yêu cầu về nước có thể cao bằng 100% lượng bốc hơi nước để có sản lượng tối đa.
Sử dụng thiết bị theo dõi độ ẩm đất theo mô hình tưới tiêu tinh chỉnh cho mỗi loại tưới tiêu/khoảng cách cây trồng, giống cụ thể và loại đất là phương pháp tốt nhất.
Trong đất cát ở WA, việc tưới tiêu có thể được chia thành 2 hoặc 3 lần một ngày, thậm chí 4 lần khi lượng bốc hơi hàng ngày khoảng 10mm/ngày. Mục đích là sử dụng lượng nước nhỏ thường xuyên hơn (<3mm một lần) để giữ phân bón ở vùng rễ hơn là dội nó xuống dưới rễ.
Nhiều máy dò độ ẩm đất hiện đại cũng theo dõi được EC (nồng độ muối trong vùng rễ). Điều đó có thể rất hữu ích khi nồng độ bắt đầu tăng vì dâu tây là loại cây trồng nhạy cảm với muối. Nếu nồng độ tăng, chỉ tưới nước trong một ngày để rửa trôi lượng muối tích tụ.

Phân bón

Cần bón phân ít nhất là hàng ngày. Nếu hệ thống có thể duy trì áp suất giữa các lần tưới thì có thể bón phân trong mỗi lần tưới.
Hệ thống hiệu quả đòi hỏi phải có vòi phun phân bón và 2 hoặc thậm chí 3 thùng chứa khác nhau.
Với hệ thống 2 thùng chứa, canxi nitrat và một nửa kali nitrat được hòa tan trong Thùng A và phân bón khác được hòa tan trong Thùng B. Thùng B có thể được phân chia thành nhiều khoang chứa hơn để sunphat và photphat được giữ riêng, tạo thành 3 thùng.
Hệ thống cơ bản nhất sử dụng ống khuếch tán, trong đó một lượng phân bón nhất định được hút vào đường ống. Trong trường hợp đó, người trồng có thể chỉ dùng một thùng, và vì một vài chất dinh dưỡng không thể trộn lẫn với nhau, nên có thể bón hai lần khác nhau vào những ngày khác nhau.
Người trồng bón thủ công thường bón phân ít hơn bởi vì quá trình đòi hỏi nhiều công sức. Thường là 3 đến 4 ngày một lần. Nhưng việc theo dõi chất dinh dưỡng trong đất chỉ ra rằng mức phân bón giảm nhanh chóng giữa các lần bón. Điều này sẽ giảm sự tăng trưởng của cây trồng.
Một ví dụ về chương trình phân bón được thể hiện ở Bảng 1. Các loại phân bón khác có thể được sử dụng để tạo ra số lượng đề xuất cho mỗi thành phần yêu cầu. Chú ý rằng lượng phân được tính trên một hecta diện tích luống, không bao gồm các lối đi
Bảng 1 Ví dụ về dung dịch dinh dưỡng được sử dụng qua tưới tiêu
Sản phẩmTỉ lệ (kg/ha/ngày)Chất dinh dưỡng được sử dụng (kg/ha diện tích luống)
NPKCaMg
Canxi nitrat (15,5% N, 19% Ca)6,51,0

1,2
Kali nitrat (13% N, 38% K)6,40,8
2,4

Magiê sunphat  (9,9% Mg)3,0



0,3
Mono amoni photphat1,90,20,4


(11% N, 22,8% P)
Tổng chất dinh dưỡng sử dụng một ngày2,00,42,41,20,3
Chương trình phân bón này sử dụng khoảng 450 kg Ni-tơ, 100 kg photpho, 580 kg kali, 288 kg canxi và 76 kg magiê cho một hecta trong một mùa vụ (tháng 4 đến tháng 11). Tỉ lệ ni-tơ vượt quá 450 kg/ha ảnh hưởng đến chất lượng và hương vị của trái.
Mặc dù người ta thường tin rằng dâu tây không thể được cung cấp ni-tơ (N) ở dạng amoni, các thử nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng việc hấp thụ N tốt hơn khi có amoni. 1/4 lượng N yêu cầu có thể được cung cấp ở dạng amoni khi trồng trên đất, trái lại với trồng trong nước. Lượng lớn hơn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng trái, làm trái mềm (dễ bị bầm dập và thối vì nấm hơn) và không có hương vị.

Nguyên tố vi lượng

Bạn có thể bổ sung tất cả các nguyên tố vi lượng vào đầu mùa bằng cách rải lên, sau đó cuốc xới luân phiên (được trình bày trong Bảng 1). Hoặc có thể thêm chúng vào hỗn hợp dung dịch dinh dưỡng ở trên.
Nếu thêm sunphat, chứ không phải chelate, bạn cần để chúng trong thùng ‘B’.
Bảng 2. Lựa chọn phân bón nguyên tố vi lượng
Phân bónCông thứcKhối lượng
(g/1000L)
Chelate sắtFe-EDTA 13%860
Mangan sunphatMnSO4.H20169
BoraxNa2B4O7.10H2O953
Kẽm sunphatZnSO4.7H2O201
Đồng sunphatCuSO4.5H2O19
Natri molybdateNa2MoO4.2H2O12
Hoặc, sử dụng hỗn hợp nguyên tố vi lượng riêng và bổ sung vào thùng thích hợp theo tỉ lệ được khuyến nghị:
Lưu ý:
  • Độ dẫn điện (EC) của dung dịch dinh dưỡng phát ra từ vòi phun nhỏ giọt không được vượt quá 2μS/cm. Nồng độ muối cao có thể gây hại cho cây trồng.
  • Canxi nitrat không được trộn trong cùng thùng với phân bón có photphat hay sunphat.
  • Khi tưới phân, giữ đất tại hoặc gần đới giữ nước để tránh tập trung muối ở vùng rễ. Khi đất khô, nồng độ muối sẽ tăng lên.

Hiệu chỉnh máy bơm phun dung dịch dinh dưỡng

  1. Khởi động máy bơm phun và tưới.
  2. Điều chỉnh mỗi máy bơm phun có cùng công suất.
  3. Đo EC ở vòi phun nhỏ giọt và điều chỉnh mỗi máy bơm phun lên hoặc xuống để có EC khoảng 2,2µS/m tổng cộng, ví dụ như 1,7µS/m cho phân bón và 0,5µS/m cho nước giếng khoan.
  4. Đo công suất máy bơm phun trong một phút để xử lý tốc độ dòng chảy

Tính thời gian phun (ví dụ đã thực hiện)

Giả sử bạn đang sử dụng 2 thùng 1000L cho dung dịch phân bón gốc. Lượng phân bón sau đây được chứa trong 2 thùng.
75 kg canxi nitrat
75 kg kali nitrat
36 kg MAP
18 kg magiê sunphat
Có 23,4 kg phân bón chứa ni-tơ trong công thức trên. Nếu bạn có 2 máy bơm, mỗi máy có tốc độ dòng chảy là 120L/ giờ, thì sẽ mất 2000/120 = 16,6 giờ trước khi bơm cạn thùng.
Tốc độ phun – 23,4kg N/16,6 giờ = 1,40kg N/giờ = 23,5g N/phút
Nếu diện tích của một trạm là:
9 luống, mỗi luống 4 hàng 125m dài x 1,2m rộng = 1350m2
VÀ lượng ni-tơ cần là  2kg/ha một ngày
= 0,2g/m2/ngày
= 0,2 x 1350m2
= 270g
Thời gian phun = 270/23,5 = 11,5 phút
Để tăng hoặc giảm lượng N, bạn có thể thay đổi thời gian phun hay tăng nồng độ công thức, miễn là EC cuối cùng không vượt quá 2,2Sµ/m.

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016

Tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước cho cây cam

Cam là cây trồng siêu lợi nhuận nhưng cũng rất ngốn nước tưới. Đối với cam trưởng thành đã cho thu hoạch, người nông dân phải tưới cam liên tục từ tháng 1 đến tháng 4 (mùa khô). Đối với cam non chưa cho thu hoạch, người nông dân thậm chí còn phải tưới với thời gian dài hơn, từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Vì vậy, việc đảm bảo đủ nước tưới và tưới nước tiết kiệm trở thành vấn đề sống còn với vùng cam, đặc biệt là vào mùa khô khi mà các hồ chứa gần như đều cạn kiệt.
Nắm bắt được thực trạng này, Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam đã triển khai công nghệ tưới tiết kiệm nước (tưới nhỏ giọt) tại một số hộ trồng cam và bước đầu đã cho thấy hiệu quả kinh tế. Được biết, hệ thống này có tuổi thọ từ 10 – 12 năm và chi phí lắp đặt khoảng gần 50 triệu đồng/ha, rất phù hợp với khả năng đầu tư của người dân.
Được biết, hệ thống tưới nhỏ giọt này giúp các hộ trồng cam có thể tiết kiệm tới 50% lượng nước so với tưới tràn. Bên cạnh đó, hệ thống còn phát huy được nhiều ưu điểm khác như giảm chi phí thuê nhân công tưới nước, rút ngắn thời gian tưới nước và giảm được chi phí tiền điện bơm nước tưới. Đồng thời, vườn cam áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt còn cho ra những quả cam phát triển đồng đều, mọc chồi khỏe, ít sâu bệnh và ít bị sốc hơn do thường xuyên được giữ ẩm.
Đặc biệt, người nông dân có thể bón các loại phân bón dễ hòa tan như đạm, kali hay các loại phân bón dạng nước… nhờ hệ thống tưới nhỏ giọt thông qua bồn pha chế gắn tại van điều chỉnh tổng, từ đó giúp giảm được đáng kể công bón phân.

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2016

Tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước, xu hướng tất yếu trong nông nghiệp

Ông Lê Văn Minh, Giám đốc Sở NN&PTNT Lâm Đồng, cho biết công nghệ tưới tiết kiệm nước (công nghệ TKN) đã được áp dụng rộng rãi hầu hết tại các địa phương trong tỉnh. Đối với cây công nghiệp như chè, cà phê được ứng dụng rộng rãi ở TP. Bảo Lộc và H. Di Linh; với các giống rau, hoa được các doanh nghiệp và các nông hộ áp dụng phổ biến và tập trung nhiều nhất ở TP. Đà Lạt, các huyện Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương.
Năm 2015, Lâm Đồng có 35.000 ha sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, trong đó có trên 16 ngàn ha áp dụng công nghệ TKN. Do đó, Lâm Đồng được xem là “điểm sáng” của cả nước trong ứng dụng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và TKN.
Thực tế ở các vùng chuyên canh rau, hoa ngoài trời ở Đà Lạt, Đơn Dương, Lạc Dương… các nông hộ dựa theo công nghệ tưới phun của Israel rồi tự cải tiến hệ thống tưới phun bằng vật liệu trong nước nên chi phí đầu tư giảm nhưng hiệu quả tiết kiệm nước và tiết kiệm công tưới thấy rõ rệt.
Những trang trại nông nghiệp công nghệ cao như Đà Lạt GAP, Lang Biang Farm, Rừng Hoa, Biofresh, Trường Hoàng…nhập hẳn hệ thống tưới phun mưa và tưới nhỏ giọt tự động tiến tiến nhất từ các nước Israel, Tây Ban Nha, Hà Lan, Hoa Kỳ…
Nước được đưa vào bể chứa thông qua hệ thống lọc rồi bơm vào hệ thống ống dẫn đến các khu vườn. Tùy vào từng giống cây trồng và giai đoạn sinh trưởng cần bao nhiêu lượng nước, phân bón được các chuyên gia lập trình sẵn trong máy tính, khi cây trồng có nhu cầu, máy tự động phun nước và phân bón phù hợp.
Ông Trần Huy Đường, chủ trang trại Lang Biang Farm cho biết: “Với công nghệ mới này giảm được ít nhất 30% lượng phân bón, giảm 50% lượng nước tưới theo cách truyền thống”.
Chưa kể lượng nước và phân bón được cây hấp thụ gần như trọn vẹn vì không bị thất thoát hoặc rửa trôi như cách tưới truyền thống. Với công nghệ tưới nhỏ giọt đảm bảo phân bố độ ẩm đều trong tầng đất canh tác, tạo điều kiện thuận lợi về chế độ không khí, nhiệt độ, độ ẩm và quang hợp cho cây trồng.

Tưới nhỏ giọt cho cây cà phê
Tưới nhỏ giọt cho cây cà phê

Từ năm 2012, ngành nông nghiệp Lâm Đồng đã triển khai 6 mô hình tưới nhỏ giọt cho cây cà phê kết hợp với bón phân tiết kiệm trên 6 ha thuộc địa bàn các huyện Lâm Hà, Di Linh và Bảo Lâm.

Năm 2013, tiếp tục triển khai thêm 2 mô hình ở huyện Lâm Hà. Kết quả, với công nghệ tưới phun trên cà phê lượng nước tưới chỉ cần 45 m3 so với 360 m3/ha cách tưới vào gốc cây; với công nghệ tưới nhỏ giọt chỉ cần 19m3 so với cách tưới cổ truyền; giảm 10,5% tỷ lệ cà phê rụng quả; hạn chế lây lan nhiều loại sâu bệnh gây hại, nhất là các loài nấm bệnh và tuyến trùng phá hoại bộ rễ, có tác động làm tăng thêm năng suất gần 0,5 tấn nhân/ha/ năm. Chưa kể giảm được khoảng 100 công lao động làm bồn dưới gốc cây và bón phân trực tiếp trên 1ha cà phê mỗi năm; tiết kiệm một lượng nhiên liệu xăng dầu đáng kể dùng để bơm nước cứu hạn cho cây cà phê vào mùa khô.

“Công nghệ tưới TKN đã mang lại hiệu quả kinh tế cao; tiết kiệm được nguồn nước, chi phí đầu tư, công lao động, tăng năng suất cây trồng… chính điều này làm thay đổi cơ bản tư duy nhận thức của người dân Lâm Đồng, khiến họ mạnh dạn đầu tư và nhân rộng mô hình tưới TKN”, ông Lê Văn Minh cho biết thêm.​

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Tưới nhỏ giọt cho vùng nước nhiễm phèn, mặt & nhiều phù sa

Dau nho giot noi tiep

Hiện nay, tưới nhỏ giọt trong nông nghiệp đang nhanh chóng trở nên phổ biến và khẳng định được hiệu quả. Ở vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tưới nhỏ giọt cho Hồ tiêu, cây ăn trái được áp dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên với vùng nước nhiễm phèn nhiều như Tây Nam Bộ thì việc ứng dụng tưới nhỏ giọt lại bị hạn chế vì thường xảy ra hiện tượng tắc nghẽn.
Hiểu được những rắc rối trên, đi tìm giải pháp khắc phục hiện tượng này, chúng tôi xin giới thiệu tới bà con Sản phẩm mới: Đầu tưới nhỏ giọt nối tiếp
Đầu tưới nhỏ giọt nối tiếp ngoài những ưu điểm cơ bản như của một hệ thống tưới nhỏ giọt như: tiết kiệm nước, tiết kiệm năng lượng chạy máy bơm, tưới được phân bón, giúp bộ rễ tiếp cận nước từ từ, hạn chế sự phá triển của cỏ dại, tiết kiệm tối đa nhân công…
Thì nó còn có một số đặc điểm vượt trội như
-       Đầu tưới có rãnh lớn không nằm bên trong đường ống
-       Có thể tháo rời vệ sinh, không sợ tắc nghẽn
-       Kết hợp tính năng phun tia (Tính năng tưới 3 trong 1: nhỏ giọt, phun mưa, tưới phân)
-       Điều chỉnh được lưu lượng
-       Điều chỉnh được khoảng cách các lỗ nhỏ giọt
Chúng tôi đánh giá đây là một thiết bị rất hiệu quả trong nông nghiệp, đặc biệt tưới các loại cây ăn trái ở vùng có nguồn nước nhiễm phèn, nhiễm mặn, hoặc nhiều phù sa.

Tưới nhỏ giọt cho cây bưởi, tiết kiệm và hiệu quả.

Bưởi là loại cây ăn quả nhanh ra trái và cho năng suất cao, có tiềm năng lớn của nền nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay, người dân vẫn chưa có sự đầu tư phù hợp cho loại trái cây có nguồn lợi lớn này, đặc biệt là phương pháp tưới. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu phương pháp tưới nhỏ giọt sẽ mang lại hiệu quả cao và tiết kiệm nước, tiết kiệm nhân công cho người trồng bưởi giúp cây sinh trưởng tốt nhất.
Hệ thống tưới nhỏ giọt cho cây bưởi được thiết kế gồm có hệ thống cấp nước bằng động lực lấy nước từ giếng hoặc hồ, nước sau khi bơm lên được lọc bởi bộ lọc qua hệ thống ống chính, ống nhánh, ống tưới có các vòi nhỏ giọt cung cấp nước cho cây bưởi. Ống nhánh được bố trí chạy dọc theo hàng cây và các ống tưới được đặt vòng quanh từng gốc bưởi.
h2
Gần đây, do thiên nhiên thời tiết ngày càng khắc nghiệt khô hạn, người trồng bưởi đang rất quan tâm đến hệ thống nước tưới cho cây. Tưới nhỏ giọt được đề xuất và áp dụng do lợi thế tiết kiệm nước nhờ kỹ thuật đưa nước đến gốc cây dưới dạng nhỏ giọt. Qua kiểm nghiệm cho thấy năng suất bưởi tại những vườn áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt đạt 30,240 kg/ha, cao hơn 8% so với với các phương pháp tưới thông thường. Nhờ vậy mà nước không bị bốc hơi và thấm sâu trong lòng đất.
h1
Với mức đầu tư khá hợp lý ban đầu, không mất thêm nhân công hệ thống này còn phân bố đều lượng nước tưới và phù hợp với mọi loại địa hình tăng năng suất cây trồng.
Tưới nhỏ giọt được đánh giá thật sự là phương pháp tưới đơn giản với chi phí đầu tư thấp, đạt hiệu quả cao hiện nay.
dai_bieu_tham_quan_he_thong_tuoi_ong_mem_duc_lo_san
Đại biểu tham quan hệ thống tưới nhỏ giọt

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2016

Cây thanh long – Cần có phương pháp tưới trong thời gian lâu dài

Cây thanh long là loài cây sinh trưởng tốt và có nhiều tiềm năng của nông sản Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng. Nhưng gần đây, trước sự ảnh hưởng của thời tiết mà đặc biệt là mùa khô hạn khắc nghiệt đã khiến cây thanh long giảm chất lượng và năng suất đáng kể. Nhiều người dân xã Hàm Liêm (Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận) tâm sự rằng, nếu thời tiết nắng nóng tiếp tục, đất đai vốn dĩ đã xấu lại không có nước tưới thì nguy cơ cây thanh long chết rất cao…. Trước tình hình đó, người nông dân cần có những chiến lược trước mắt để cải thiện bằng các phương pháp tưới nước khác nhau, cho hiệu quả kịp thời. Tuy nhiên, chừng đó vẫn chưa đủ. Nhà nông kết hợp với các cấp chính quyền cần có cái nhìn xa hơn để đảm bảo đầu ra ổn định cho cây thanh long bằng việc đầu tư vào hệ thống tưới, đặc biệt là hệ thống tưới phun mưa

thanhlong

Tưới phun mưa là phương pháp tưới cung cấp nước cho cây trồng từ 1 hệ thống đường ống thông qua các thiết bị tưới và chỉ làm ướt vùng đất thuộc phạm vi bộ rễ của cây trồng hoạt động. Nhờ kết cấu đơn giản và vận hành tiện lợi nên tưới phun mưa có thể điều khiển linh hoạt với nhu cầu sử dụng nước của cây thanh long theo các giai đoạn sinh trưởng đảm bảo độ ẩm luôn nằm trong khoảng tối ưu. Mặc dù giá thành đầu tư ban đầu của hệ thống tưới phun mưa còn cao so với điều kiện kinh tế của người dân. Tuy nhiên, những hiệu quả của hệ thống này mang lại rất lớn như giảm công tưới nước, bón phân và đặc biệt là giảm lượng nước tưới đối với vùng có nguồn nước hạn chế. Do vậy hiệu quả đầu tư sẽ hoàn vốn trong khoảng 5 năm sử dụng…
Lời kết Tóm lại, ngành nông nghiệp nước ta đang tồn tại nhiều vấn đề đáng quan tâm và khắc phục mà chủ yếu là việc người dân phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên và thiếu trầm trọng nguồn vốn đầu tư cho khoa học kỹ thuật. Vậy ngay từ bây giờ, hãy để chính chúng ta là chủ thiên nhiên bằng cách đơn giản nhất là cải tạo hệ thống tưới tiêu cho tương lai.

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

5.000ha sẽ được tưới tự động


Một trong những mục tiêu của Đề án “tái cơ cấu ngành thủy lợi” là phát triển một nền nông nghiệp chủ động tưới, tiêu theo hướng hiện đại: Đẩy mạnh trên diện rộng các giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho các cây trồng cạn chủ lực như càphê, hồ tiêu, chè, cây điều, cây mía, cây ăn quả, rau, hoa… Đặc biệt, trọng tâm là áp dụng cho khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và miền núi phía Bắc.

Theo đó, đề án “nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi hiện có” đã đưa ra mục tiêu cụ thể là đến năm 2020 sẽ có khoảng 500.000 ha cây trồng cạn chủ lực được tưới theo hướng hiện đại với công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước.

Đó là một trong những nội dung chính được đề cập tại Hội nghị triển khai ứng dụng công nghệ phục vụ tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả công trình thủy lợi, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức ngày hôm nay (15/8), tại Hà Nội.

Phát biểu tại Hội nghị, bà Lê Thị Kim Cúc, Vụ trưởng Vụ khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế thuộc Tổng Cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết, hiện nay việc áp dụng tưới tiết kiệm còn rất hạn chế do thông tin về tưới tiết kiệm nước cho cây trồng, công tác chuyển giao công nghệ, đào tạo, nâng cao nhận thức cho người nông dân còn thiếu và yếu.

Bên cạnh đó, chi phí đầu tư, nhất là đầu tư ban đầu, đối với công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước còn cao so với thu nhập của người nông dân và đòi hỏi có một kiến thức, trình độ nhất định khi sử dụng, trong khi động lực của người sản xuất chưa đủ lớn (chưa thấy hết được lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế của việc áp dụng công nghệ này so với phương pháp tưới truyền thống) nên chưa mạnh dạn áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước.

Theo bà Lê Thị Kim Cúc, kết quả nghiên cứu và thực tế áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho một số cây chủ lực có lợi thế và có thị trường như càphê, hồ tiêu, thanh long, mía ở Việt Nam đã cho thấy rằng, áp dụng công nghệ này kết hợp với tưới phân có thể gia tăng năng suất từ 10-40%, giảm chi phí công chăm sóc, tăng thu nhập của hộ gia đình từ 20-50% (thậm chí có thể tăng gần 170%  đối với mô hình Trung tâm mía đường Bến Cát-Bình Dương) và tiết kiệm nước so với tưới truyền thống từ 20-40%.

Ngoài ra, việc áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước kết hợp với bón phân còn có thể làm giảm đáng kể lượng phân bón cho cây trồng, vì vậy giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường do phân bón gây ra.

Mặc dù có nhiều ưu điểm vượt trội so với tưới truyền thống, việc áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trong nông nghiệp nước ta vẫn còn rất hạn chế. Theo thống kê sơ bộ tính đến thời điểm hiện tại, diện tích cây trồng được áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trên cả nước mới đạt được con số rất nhỏ chỉ khoảng 28.447 ha; trong đó, tưới nhỏ giọt 21.207 ha và tưới phun mưa cục bộ 7.240 ha.

Thái Nguyên Áp Dụng Công Nghệ Tưới Phun Mưa Tự Động Trên Cây Chè


Năm 2011, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện đã thực hiện mô hình “Tổ hợp tác sản xuất chè vụ đông có sử dụng
công nghệ tưới phun mưa tự động”. Đây là một trong những phương pháp sử dụng công nghệ kỹ thuật tưới nước tiết kiệm được áp dụng rộng rãi trên Thế giới và mang lại hiệu quả cao. Mô hình được triển khai tại xóm Quỳnh Hội (Trung Hội, Thái Nguyên) với 7 hộ gia đình tham gia, quy mô 1 ha chè. Được biết, đây là xóm có diện tích chè tập trung, độ dốc trên 15m, bà con có trình độ thâm canh từ nhiều năm nay, nguồn nước tưới thuận lợi và mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tổng kinh phí để thực hiện mô hình này là 200 triệu đồng, trong đó Nhà nước hỗ trợ 100 triệu đồng. Mỗi gia đình được hỗ trợ số tiền 12 triệu đồng (bằng khoảng 50% giá trị đầu tư xây bể chứa nước và mua máy móc, thiết bị), còn lại là nhân dân đối ứng bằng tiền mặt và ngày công. Tham gia vào mô hình này bà con được đi thăm quan học hỏi kinh nghiệm vận hành hệ thống tưới nước và bảo quản máy móc tại xã Tân Cương (T.P Thái Nguyên). Trong quá trình đào lắp hệ thống ống ngầm dưới lòng đất đều có sự chỉ đạo và giám sát của các cán bộ kỹ thuật phòng Kinh tế – Hạ tầng. Anh Ngô Quốc Tự, Phó phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Định Hóa, một trong những người trực tiếp tham gia mô hình cho biết: Hệ thống phun tưới nước được cấu tạo gồm 3 bộ phận: bể chứa cung cấp nước với diện tích 15m3, hệ thống ống dẫn dưới lòng đất và các vòi tưới phun mưa xoay tự động trong đường kính 8m. Nước được dẫn trực tiếp đến hệ thống vòi phun qua đường ống nên đã giảm thiểu tối đa việc thất thoát nước, duy trì được độ ẩm thường xuyên và hạn chế tối đa xói lở đất. Hệ thống được lắp cố định nên đã khắc phục được nhược điểm là làm gẫy, dập búp chè trong quá trình di chuyển đường ống như cách bơm tưới thông thường. Việc bảo quản hệ thống cũng rất nhẹ nhàng, hết vụ tưới chè vụ đông, bà con chỉ cần tháo những vòi tưới mang về nhà cất giữ. Theo tính toán của các cán bộ kỹ thuật, một hệ thống tưới phun tự động nếu được sử dụng và bảo quản đúng cách, bà con có thể dùng tưới chè trong vòng 10 năm. Ông Nguyễn Tấn Nam, một trong 7 hộ dân ở xóm Quỳnh Hội được lựa chọn tham gia mô hình, cho biết: Gia đình tôi có 1 ha chè cành. Trước đây, gia đình tôi vẫn tưới chè bằng phương pháp thủ công, sử dụng máy bơm từ giếng khoan rồi dẫn nước qua các ống nhựa mềm để phun trực tiếp lên các nương chè, rất tốn nước mà lại không đều. Từ khi tham gia mô hình, tôi thấy phương pháp tưới phun mưa bằng van xoay tự động có hiệu quả rõ rệt. So sánh với phương pháp truyền thống mà gia đình vẫn sử dụng thì phương pháp tưới tiết kiệm nước chỉ sử dụng lượng nước bằng 1/3, thời gian tưới giảm 2/3, đảm bảo độ ẩm tương đương nhau, công lao động phải sử dụng rất ít… Đặc biệt, khi sử dụng phương pháp này, tôi có thể kết hợp nhiều biện pháp chăm sóc thông qua hệ thống tưới như: phun thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ cỏ, vận chuyển và tưới phân vi sinh dạng lỏng; chủ động và nâng cao hiệu quả bón phân, phân bón được hòa tan, ngấm ngay xuống đất, tăng khả năng hấp thụ cho cây trồng… Sau hơn 2 năm áp dụng mô hình mới, vào các vụ chè đông, người trồng chè ở xã Trung Hội được thu hoạch 2 lứa, năng suất búp chè tươi đạt từ 10-12 tấn/ha/năm, phần giá trị tăng thêm kể cả tiết kiệm chi phí nhân công đạt xấp xỉ 20 triệu đồng/ha/năm. Qua ứng dụng vào thực tiễn, mô hình này được bà con đồng tình ủng hộ, nhiều hộ trồng chè ở xã Sơn Phú, Thanh Định, Bình Thành đã đầu tư hệ thống này nhằm tăng năng suất, chất lượng làm chè vụ đông.Việc tưới chè chủ yếu được bà con thực hiện vào mùa khô, một năm thực hiện 17-20 đợt tưới, mỗi đợt tưới tối đa 60m3/ha, thực hiện trong 1-2 ngày, 4-8 giờ/ngày, tùy theo tình hình độ ẩm của đất. Vì vậy việc trồng chè kết hợp mô hình tưới phun tự động ở Định Hóa là rất hợp lý, mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Người trồng chủ động nước tưới theo đúng thời vụ và yêu cầu của cây chè, khắc phục được kỹ thuật tưới nước cho vùng đồi, nơi khan hiếm nước, không áp dụng được các biện pháp tưới thông thường bằng kênh dẫn. Phương pháp tưới phun mưa còn chủ động và nâng cao hiệu quả phân bón được hòa tan, ngấm ngay xuống đất, giảm khả năng thăng hoa của phân đạm, tăng khả năng hấp thụ của cây trồng. Đặc biệt, tưới phun mưa giúp tăng số lứa hái, tăng số lượng và chất lượng chè trong mỗi đợt hái khoảng 30%. Người trồng chè có thêm chè vụ đông – giá bán thường cao hơn vào dịp Tết, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đồng chí Đàm Tiến Niên, Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT khẳng định: Với những hiệu quả từ phương pháp tưới phun mưa tự động mang lại đã giúp người trồng chè giảm bớt khó khăn. Giờ đây, trên một số nương chè ở Định Hóa, dễ dàng nhận thấy những vòi nước nhấp nhô, nước phun trắng xóa. Bóng dáng hàng chục nông dân với những vòi nước kéo lê trên các quả đồi để tưới nước cho cây chè từ lúc nửa đêm cho đến chập tối không còn nữa. Sự chủ động của người dân Định Hóa trong việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại trong thời gian qua là tín hiệu đáng mừng. Những ưu điểm của kỹ thuật tưới tiết kiệm nước trong sản xuất nông nghiệp chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế vườn đồi, kinh tế trang trại, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi…

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Tư vấn kỹ thuật tưới nước cho cây cà phê

Số lượng nước tưới cho cây cà phê như thế nào là hợp lý?
Khi cây cà phê cần nước, nhưng lượng mưa cung cấp không đủ thì phải tiến hành tưới nước. Đó là khi độ ẩm ở trong đất xuống thấp nhỏ hơn 28%. Khi tưới nước phun mưa đã tạo ra dòng chảy trên bề mặt thì độ ẩm ở trong đất thường cao hơn 46%. Đối với cà phê trong thời kỳ kinh doanh trong điều kiện khô hạn như vùng Buôn Ma Thuột thì phải tưới lần đầu là 800m3/ha và các lần sau là 600m3/ha, khoảng cách giữa hai lần tưới thường là 3 tuần lễ. Ở những nới thiết các biện pháp che tủ đất, không có cây che bóng và thiếu đai rừng thì khoảng cách này ngắn hơn. Thường trong một mùa khô phải tưới tới 4 lần, năm hạn nặng phải tưới đến 5-6 lần. Lượng nước cần trong một năm cho một hectare cà phê từ 2600m3 – 3200m3.

Tưới nước vào giai đoạn nào là hợp lý?
Sau khi thu hoạch cây cần có thời gian dưỡng sức, phân hoá mầm hoa và cần có một thời gian khô hạn nhẹ. Khi thầy cây đã phân hoá mầm hoa khá đầy đủ, thường lá cuối tháng một, trong tháng 2 dương lịch ở Buôn Ma Thuột thì tiến hành tưới nước lần đầu. Sở dĩ tưới lần đầu phải đẫm cho cây đủ nước đề bung hoa, nếu tưới không đủ nước thì hoa không nở được và có hiện tượng hoa chanh dẫn tới hoa bị khô là giảm năng suất đáng kể. Tưới nước lần đầu hợp lý về thời gian có khả năng làm cho tỷ lệ hoa nở lên tới 60-70%, nếu tưới nước quá sớm thì đất còn đủ ẩm, hoa sẽ nở lai rai và không tiết kiệm được nguồn nước, gây ra lãng phí.
Có mấy cách tưới nước cho cà phê?
Thường trong sản xuất có mấy cách tưới nước như sau:
- Phương pháp tưới phun mưa: Là phương pháp tưới tốt nhất vì làm cho lượng nước phân bố từ từ và đều trên toàn bộ bề mặt đất, ít gây ra xói mòn và xáo trộn cấu tượng của đất, tạo ra độ ẩm thuận lợi cho bung hoa, chi phí đầu tư thấp, ít hư hỏng, dễ vận hành. Xem thêm bài viết “Lợi ích tưới phun mưa”
- Phương pháp tưới gốc: Dùng ống cao su thường có đường kính 50mm đưa nước vào từng gốc. Trước khi tưới nước phải vét bồn xung quanh gốc và tán cây để chứa nước. Không đào bồn quá sâu bởi vì trên 80% trọng lượng rễ tập trung ở tầng đất có độ sâu từ 0-40cm. Đào bồn quá sâu làm hư hại nặng bộ rễ sẽ có ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và sự hút chất dinh dưỡng của cây. Khi tưới đề ống nằm ngang trên mặt đất, không cần trút đầu ống xuống đất vì như vậy tạo thành hố làm xáo trộn cấu trúc tầng đất mặt. Khi nước đã đầy bồn thì di chuyển ống sang tưới cây bên cạnh, khi thấy nước ở hố trước đã rút cạn thì quay ống lại tưới tiếp cho đủ lượng khoảng 450 lít/gốc (từ lần thứ hai trở đi). Phương pháp này, bà con thường tưới dư nước (73% hộ dân tưới dư nước), tham khảo bài viết thực trạng tưới cà phê.
- Tưới tràn: Ở những nơi có độ dốc vừa phải có thể làm rãnh rồi dẫn nước vào từng hố để tưới cho cà phê. Phương pháp này tốn rất nhiều nước, ở những nơi có nguồn nấm bệnh ở rễ, rệp sáp, tuyến trùng thông qua phương pháp tưới này có thể tạo ra con đường lây lan nguồn bệnh qua dòng nước. Ở những nơi đã thấy xuất hiện bệnh rễ thì không được tưới tràn.
- Tưới nhỏ giọt: Đây là phương pháp tưới tiết kiệm nước, ít gây những tác động xấu cho vườn cây song phải có thiết bị và hệ thống ống nước hay vòi phun đặc biệt. Khi sử dụng hệ thống này phải được hướng dẫn về mặt kỹ thuật và quản lý có nhiều khó khăn, chi phí đầu tư thường lớn, chi phí vận hành, bảo trì phát sinh nhiều.

Kỹ thuật tưới phun mưa cho cây cà phê

Tưới nước cho cây cà phê là một trong những kỹ thuật cực kỳ quan trọng quyết định đến năng suất của cây cà phê. Một năm cây cà phê cần được tưới nước từ 3 đến 4 đợt nhất là giai đoạn sau khi phân hóa mầm hoa để cây có khả năng thụ phấn và cho năng suất tốt nhất. Điều kiện khí hậu ở Tây Nguyên thường có mùa khô kéo dài và gay gắt, lượng nước ngấm thường xuyên bị cạn kiệt khiến nhiều hộ dân không thể cung cấp nước kịp thời cho cây cà phê. Người nông dân thường sử dụng phương pháp tưới gốc với lượng nước cần thiết quá nhiều và gây lãng phí nguồn nước.

Một trong những giải pháp cho bà con nông dân vùng thiếu nước chính là kỹ thuật tưới nước phun mưa – là một trong những phương pháp tưới tiết kiệm nước nhất hiện nay.

Ưu điểm của kỹ thuật tưới phun mưa.

Phương pháp có thể thực hiện trên mọi địa hình đồi dốc chỉ cần thông thoáng và thiết kế được hệ thống lắp đặt. Chiếm ít diện tích.

Cải tạo được điều kiện về khí hậu của vùng đất trồng cà phê. Tiết kiệm nước tối đa, sử dụng từ 90- 95% lượng nước tưới. Cực kì có ý nghĩa với những vùng hiếm nước hay phải khó khăn mới lấy được nước.
Chất lượng nước cao, có thể sử dụng thêm phân hóa học hoặc thuốc khử trùng vào trong nước để tăng thêm chất lượng nước. lượng nước phân tán đều khắp các cây, và đảm bảo được lượng nước tưới chính xác.

Đáp ứng được nhu cầu nước của cây, bảo vệ được lớp đất phía trên cũng như bộ rễ, làm sạch bề mặt lá và các loại bụi bẩn bám trên cây.

Hệ thống tự động hóa, điều khiển dễ dàng. Không tốn nhiều nhân công. Hiệu suất công việc cao hơn.

Nhược điểm của kỹ thuật tưới phun mưa.

Chi phí đầu tư cho hệ thống tưới phun mưa lớn với các trang thiết bị đắt tiền. Người lắp đặt và vận hành cần có những hiểu biết nhất định về hệ thống: đặc biệt tính toán công suất máy bơm, xác định hệ thống đường ống dẫn nước, tính toán độ đồng đều của nước tưới…
Chất lượng tưới phun mưa phụ thuộc vào thời tiết là chủ yếu, nhất là gió. Gió lớn thường gây thất thoát nước cao. Đối với những vùng có vận tốc gió lớn hơn 5,6 m/giây thì nên ngừng tưới phun mưa.
Tiêu tốn nhiều nhiên liệu để vận hành do vòi phun khá cao nên đòi hỏi áp lực lớn. (3 atm).

Cấu tạo hệ thống

Tổ hợp máy bơm công suất lớn (trên 50 mã lực) có tác dụng hút nước để cung cấp cho hệ thống phun mưa.
Hệ thống ống dẫn bằng kim loại nhẹ hoặc ống HDPE, ống uPVC.
Béc tưới phun mưa.

Lượng nước tưới.

Với những ưu điểm như tiết kiệm nước và chủ động trong hệ thống tưới tiêu, kỹ thuật tưới nước phun mưa được áp dụng ở nhiều nước trồng cà phê trên thế giới. Với lượng nước tưới lần đầu là từ 700- 800 m3/ha. Mỗi đợt tưới cách nhau 20 đến 25 ngày với lượng nước cho đợt 2 là từ 600- 700 m3/ha. Đợt 3 là 650- 700 m3/ha. Tổng lượng tưới bình quân cho một vụ là từ 2400- 3000 m3/ha.

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016

Tưới nhỏ giọt cho cây Cà phê mang lại hiệu quả

Theo đánh giá, công nghệ tưới nhỏ giọt cho cây cà phê có thể tăng năng suất từ 15-20%, dễ lắp đặt, bảo dưỡng và đặc biệt phù hợp với địa hình đồi dốc các tỉnh Tây Nguyên.

Hội thảo khuyến nông và nông nghiệp với chủ đề “Tưới tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón trong sản xuất cà phê bền vững ở Tây Nguyên” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh Lâm Đồng tổ chức ngày 17/4 tại Huyện Lâm Hà, Lâm Đồng đã có 250 đại biểu đại diện các viện, trường, các nhà khoa học trong nước, cán bộ ngành nông nghiệp và người trồng cà phê tại 5 tỉnh Tây Nguyên tham dự.

Tại buổi Hội thảo, các đại biểu khẳng định, sản xuất cà phê ở Tây Nguyên đang thiếu tính ổn định và bền vững do tình trạng khan hiếm nước ngày càng trầm trọng; nông dân sử dụng nguồn nước còn lãng phí, chưa đầu tư, ứng dụng kỹ thuật tưới nước tiết kiệm, chưa sử dụng bón phân hợp lý, là những nguyên nhân chính dẫn đến chi phí tăng, rủi ro tăng và lợi nhuận giảm.

Tưới nhỏ giọt cho cây cà phê
Tưới nhỏ giọt cho cây cà phê

Những kinh nghiệm về công nghệ tưới nhỏ giọt, tiết kiệm nước cũng như sử dụng phân bón có hiệu quả được nhiều phân tích và đánh giá. Theo các chuyên gia, nếu áp dụng phương áp tưới nhỏ giọt, có thể giúp tiết kiệm 30-40% lượng nước so với các phương pháp tưới truyền thống, tiết kiệm 30 – 40% lượng phân bón so với bón phân thủ công, giảm trên 90% chi phí nhân công tưới và bón phân.

Đáng chú ý, công nghệ này phù hợp địa hình đồi dốc ở Tây Nguyên, dễ lắp đặt và vận hành bảo dưỡng, tăng được năng suất cà phê từ 15% – 20%. Chi phí đầu tư trung bình khoảng 35-50 triệu đồng cho mỗi héc ta.

Dự hội thảo, ông Nguyễn Thanh Hùng, nông dân trồng cà phê ở Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng cho biết, diễn đàn này rất bổ ích, giúp ông thấy được nhiều ưu điểm của mô hình tưới nhỏ giọt. Tuy chi phí đầu tư hơi cao nhưng ông sẽ mạnh dạn áp dụng vào vườn cà phê 2ha của gia đình trong niên vụ cà phê tới.

“Lâu nay người nông dân làm theo quy trình mỗi năm chỉ tưới từ 1 – 2 đợt. Nếu tưới tràn sẽ tốn nước nhưng lại chỉ đáp ứng lượng nước cho cây trong thời gian ngắn, khiến hiệu quả sử dụng phân bón thấp, chi phí cao, gây lãng phí. Qua hội thảo này với mô hình tưới nhỏ giọt rất hiệu quả, sẽ tiết kiệm được nước, phân bón, nhân công… đây là điều mà nông dân rất mong muốn”, ông Nguyễn Thanh Hùng cho biết.

Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2016

Áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước cho cây trồng cạn

Thực trạng áp dụng tưới tiết kiệm nước đã chứng tỏ tính ưu việt so với phương thức tưới truyền thống, giúp tiết kiệm nước tưới, phân bón, giảm công chăm sóc, tăng năng suất, cải thiện thu nhập người dân và góp phần bảo vệ môi trường. Theo báo cáo của Tổng cục Thủy lợi, một số cây chủ lực có lợi thế và có thị trường như cà-phê, hồ tiêu, thanh long, mía ở nước ta áp dụng công nghệ này kết hợp tưới phân có thể gia tăng năng suất 10-40%, giảm chi phí công chăm sóc, tăng thu nhập của hộ gia đình 20-50%, có nơi tăng gần 170% như ở Bến Cát (Bình Dương) và tiết kiệm so với tưới truyền thống 20-40%.

Áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước cho cây trồng cạn
Mô hình tưới tiết kiệm nước

Tuy nhiên, theo Vụ trưởng Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế (Tổng cục Thủy lợi) Lê Thị Kim Cúc, hiện nay việc áp dụng tưới tiết kiệm còn rất hạn chế do thông tin về tưới tiết kiệm nước cho cây trồng, công tác chuyển giao công nghệ, đào tạo, nâng cao nhận thức cho người nông dân còn thiếu và yếu. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư, nhất là đầu tư ban đầu, đối với công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước còn cao so với thu nhập của người nông dân và đòi hỏi có một kiến thức, trình độ nhất định khi sử dụng, trong khi động lực của người sản xuất chưa đủ lớn, cho nên chưa mạnh dạn áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước. Thực tế đến nay, áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước mới đạt được khoảng hơn 28.400 ha, trong đó tưới nhỏ giọt hơn 21.200 ha.

Giải pháp thúc đẩy Tại tỉnh Đác Lắc, bình quân mỗi vụ, người dân tưới nước cho cây cà-phê khoảng 4-5 lần theo hai hình thức tưới phun mưa hoặc tưới gốc, với khối lượng nước vượt quá yêu cầu 300-400 lít/gốc/lần tưới. Điều này không những gây lãng phí nước mà còn làm suy giảm độ phì nhiêu của đất. Áp dụng mô hình tưới tiết kiệm sẽ giảm được 20% lượng nước, như vậy mỗi năm tiết kiệm được khoảng 70,2 triệu m 3 nước. Riêng công tưới nước cho cà-phê, nếu tưới theo truyền thống cần khoảng 24 công/ha/năm, còn khi dùng biện pháp tưới tiết kiệm thì giảm được khoảng 15 công/ha/năm. Không chỉ riêng cây cà-phê mà cây hoa và rau cũng đang được người nông dân sử dụng biện pháp tưới nước tiết kiệm thông qua công nghệ tưới nhỏ giọt và phun mưa.

Để nhân rộng mô hình tưới tiết kiệm, thời gian tới, các địa phương cần hướng tới các lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế cao, như áp dụng các phương pháp tưới tiên tiến cho cây trồng cạn, thủy lợi cho thủy sản, ứng dụng khoa học công nghệ, với nâng cao nhận thức của nhân dân trong phòng chống thiên tai. Đồng thời tiếp tục rà soát, đề xuất giải pháp cấp nước tưới cho các cây trồng cạn có quy mô sản xuất lớn như cà-phê, điều, hồ tiêu.

Xây dựng các mô hình trình diễn về tưới tiên tiến, tiết kiệm nước ở khu vực cần ưu tiên cho các loại cây trồng cạn chủ lực. Thêm vào đó, các địa phương cần nghiên cứu cơ chế, chính sách về ưu đãi vay vốn cho hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp để áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; ưu đãi cho doanh nghiệp, cá nhân sản xuất, cung ứng vật tư thiết bị, cấu kiện, hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, nhà lưới, nhà kính. Ngoài ra, gấp rút nghiên cứu quy trình tưới mới trên cơ sở các đề tài nghiên cứu đã có. Thực tế đã chứng minh, nghiên cứu về giống có thể chỉ tăng 5-10%, nhưng một hệ thống tưới thông minh có thể làm cây trồng tăng năng suất 30-50%.

Để đạt được mục tiêu đến năm 2020, sẽ có 500 nghìn ha cây trồng cạn chủ lực được tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, các địa phương cần phân loại từng cây trồng với từng kỹ thuật tưới sao cho bảo đảm phù hợp trong việc áp dụng vào thực tiễn. Tiến tới thành lập một cơ sở thiết kế, chế tạo những thiết bị tưới tiết kiệm nước vừa rẻ lại chất lượng, sử dụng lâu bền. Vấn đề nhân rộng các mô hình tưới tiết kiệm nước thành công cần được thực hiện một cách khẩn trương, bài bản; trong đó, mấu chốt là thành lập được mô hình liên kết hiệu quả Nhà nước – người dân – doanh nghiệp – viện nghiên cứu.

Giải pháp công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước là một giải pháp hữu hiệu, có tính đột phá cho vùng khô hạn, thiếu nguồn nước và trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nhằm gia tăng chuỗi giá trị nông sản, cải thiện đời sống người dân. Tiềm năng phát triển công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước ở nước ta còn rất lớn cả về phạm vi và quy mô.

Chính vì vậy, việc triển khai xây dựng có hiệu quả các mô hình mẫu, mô hình trình diễn tưới tiết kiệm nước cho cây trồng cạn gắn với nông nghiệp thông minh sẽ nâng cao đời sống vật chất người dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới.

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2016

Giải pháp tưới cây cho mùa khô hạn.

Trước đây, các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ thỉnh thoảng mới bị hạn. Thế nhưng trong những năm gần đây dường như năm nào cũng bị, năm sau hạn gắt hơn năm trước. Tây Nguyên thường bị hạn trong vụ ĐX, vùng Duyên hải Nam Trung bộ thì gặp hạn trong vụ hè thu và vụ mùa.

Tưới cà phê
Tưới cà phê

Nước tưới và chế độ bón phân là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, tuổi thọ cây trồng. Nhiều nhà vườn cho rằng, cứ tưới nhiều nước, bón đạm ào ạt là tiêu lớn nhanh, cho năng suất cao nhưng thực tế hoàn toàn khác. Tưới nước vừa đủ và bón phân hợp lý vừa giúp tiết kiệm chi phí, vừa đảm bảo năng suất, tuổi thọ cây ở mức cao nhất.
Đối với những vùng trồng lúa, chúng tôi khuyến cáo nông dân thực hiện các giải pháp tưới tiết kiệm để giảm áp lực nước tưới. Vụ ĐX ở các tỉnh trong vùng Duyên hải Nam Trung bộ thường rơi vào mùa mưa, mùa này các sông suối luôn đầy nước. Do đó, trong những vụ ĐX các địa phương nên dự trữ nước trong các hồ chứa, tận dụng nước nguồn tự nhiên để SX.
Đến vụ hè thu và vụ mùa, nguồn nước dự trữ trong các hồ chứa sẽ cứu được hạn. Điều chúng tôi đặc biệt quan tâm là ở Tây Nguyên và vùng Duyên hải Nam Trung bộ hầu hết các hồ chứa và các sông lớn thường gắn với thủy điện. Do đó, ngành thủy lợi các tỉnh và các nhà máy thủy điện cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, khi vào vụ gieo sạ là các nhà máy thủy điện cũng vận hành xả nước để nguồn nước vừa phục vụ SX điện vừa phục vụ SXNN khỏi hao phí nguồn nước….

​Theo nhận định của TS Nguyễn Đăng Nghĩa (Trung tâm Nghiên cứu đất – phân bón và môi trường phía Nam), so với cách tưới truyền thống, công nghệ tưới nhỏ giọt giúp tiết kiệm từ 20-40% lượng nước và giảm lượng phân bón cho cây trồng, qua đó giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường do phân bón gây ra. Đặc biệt, khi áp dụng công nghệ tưới hiện đại với tưới phân có thể gia tăng năng suất từ 10-40%, giảm chi phí công chăm sóc, tăng thu nhập cho hộ gia đình từ 20- 50%.

Mức đầu tư cho công nghệ tưới nhỏ giọt  cũng không cao, tùy theo quy mô nhà vườn và lưu lượng nước tưới, giá thành dao động từ 20 – 50 triệu đồng/ha, tuy nhiên, hiệu quả kinh tế từ mô hình này mang lại kéo dài đến hàng chục năm sau đó.

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016

Nhược điểm của hệ thống tưới nhỏ giọt và biện pháp khắc phục

Hệ thống tưới nhỏ có nhiều ưu điểm so với các phương pháp tưới khác. Ưu điểm lớn nhất cuả công nghệ tưới nhỏ giọt là tiết kiệm nước do nước tưới được cấp trực tiếp cho cây trồng, không bị thất thoát do bốc hơi và thấm sâu. Tưới nhỏ giọt còn có khả năng giữ được độ ẩm đồng đều trong tầng đất canh tác góp phần nâng cao năng suất cây trồng. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm tuyệt vời đó, nhược điểm của hệ thống tưới nhỏ giọt không ít những vướng mắc mà chúng ta cần nghĩ ngay phương án khắc phục trước khi đi vào thiết kế và thi công hệ thống này.


Những nhược điểm và cách khắc phục:

1. Tắt nghẽn: đây là hiện tượng xảy ra khá phổ biến trên tất cả hệ thống tưới nhỏ giọt hiện nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Trong đó nguyên nhân chủ yếu do chất lượng nguồn nước và hệ thống lọc cũng như chất liệu làm nên đường ống.

Cách khắc phục hiện tượng này: phải xử lí nguồn nước phải tuyệt đối sạch không có rác bẩn và tạp chất. Nên sử dụng hệ thống lọc hiệu quả

2. Phân bố vùng ẩm:

3. Tích tụ muối: Hệ thống tưới nhỏ có thể dùng nước mặn để tưới. Tuy nhiên, một vấn đề có thể nảy sinh do việc tích tụ muối ở rìa của vùng ẩm sau một thời gian khô hạn kéo dài. Những cơn mưa nhỏ sẽ rữa các muối này tan vào vùng rễ, việc này có thể gây xót rễ, hại cây. Ở vùng có khí hậu khô hạn, thỉnh thoảng cần tưới bổ sung bằng cách tưới phun mưa để rửa lượng muối tích tụ giữa các mùa. Ở những vùng mưa nhiều, nước mưa sẽ rửa muối khỏi vùng rễ tước khi có thể tích tụ.

4. Chi phí ban đầu cao: Chi phí đầu tư ban đầu và chi phí bảo dưỡng hệ thống tưới nhỏ có thể cao hơn hệ thống tưới khác. Các hệ thống tiêm hóa chất, lọc, tự động hóa càng làm tăng giá thành. Chi phí vận hành thay đổi tùy theo loại hệ thống, thiết bị lọc, nguồn nước, chất lượng nước, xử lí nước và thiết bị tự động.

5. Các trở ngại khác: Lượng nước chảy ra dưới dạng giọt, tia nước nhỏ hay phun mưa nhỏ qua các lỗ thoát nước (emitter) đặt dọc theo các ống nhánh (lateral). Các emitter có thể được đặt trên hay dưới mặt đất. Nói chung, hệ thống tưới nhỏ được phân loại căn cứ vào loại emitter được dùng. Đó là: nhỏ giọt (drip), sủi bọt (bubble), phun tia(spray jet), và tưới dưới mặt đất (subsurface) (ASAE EP 405). Các emitter có thể thay đổi từ các loại thiết bị rất tinh vi, chảy nước liên tục ở các áp lực khác nhau (những emitter điều hòa áp suất) cho tới những lỗ thoát rất nhỏ và đơn giản. Có rất nhiều loại emitter khác nhau đã được phát triển để tìm ra loại hoàn thiện nhất.

Mục đích chính là đảm bảo cho nước được phân phối đều. Điều thiết yếu là lượng nước chảy ra phải đổng đều, không thay đổi nhiều với ít sự chênh lệch áp suất trong hệ thống. Đồng thời các emitter cũng phải được lắp đặt sao cho chúng ít bị bít nhất. Chi phí và kích cỡ cũng rất quan trọng. Các loại emitter đang có bán trên thị trường có thể được phân thành 5 loại: loại emitter đường dài (long path emitter), loại lỗ ngắn (short orifice emitter), loại emitter nước xoáy (vortex emitter), loại emitter có điều chỉnh áp suất(pressure compensatinh emitter), và loại ống có nhiều lỗ nhỏ li ti hay ống nhỏ. Thêm vào đó, các thiết bị emitter của hệ thống tưới nhỏ còn bao gồm thiết bị tưới sủi bọt (buble) và tưới phun mưa nhỏ(jet spray).

Lơi kết: kỹ thuật tưới nhỏ giọt có khả năng thực hiện chế độ tưới theo độ ẩm tối ưu vì điều khiển chế độ tưới dễ dàng, chỉ cần một lượng nước phù hợp cho mỗi lần tưới, tổn thất nước cho ngấm sâu, chảy tràn, hao hụt hầu như rất thấp do nước tưới được cấp trực tiếp cho cây trồng. Do vậy mà áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt mang lại hiệu quả tiết kiệm nước hơn nhiều so với kỹ thuật tưới rãnh thông thường.

​Hệ thống tưới nhỏ giọt cho cây dâu tây tăng năng suất trái caoMô hình tưới nhỏ giọt cho cây dưa leo đạt 800 kg/côngƯu điểm của hệ thống tưới nhỏ giọt tiết kiệm nướcHệ thống tưới nhỏ giọt bằng năng lượng mặt trời ở Tiền GiangÁp dụng tưới nhỏ giọt cho vườn xoài tăng năng suất trái caoTưới nhỏ giọt, phương án cứu cây trồng trong mùa khô hạnTưới nhỏ giọt cho cây mía đạt năng suất 150 tấn/haỨng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt vào sản xuất nông nghiệpTưới nhỏ giọt đem lại lợi ích gì cho bà con nông dânTăng năng suất trái sau khi áp dụng tưới nhỏ giọt cho cây cam

Thứ Ba, 12 tháng 7, 2016

Tăng năng suất cây cam nhờ tưới nhỏ giọt

Với diện tích trồng cam 2ha nhà anh Hưng, vào mùa khô trung bình tưới 1 lần/tuần, nếu tưới thủ công tối thiểu phỉa mất 2 ngày với 2 nhân công, chi phí trả công 600-700 nghìn đồng. Tính tổng cộng cả tiền điện, dầu mỗi đợt tưới chi phí thường từ 2,5-3,0 triệu đồng. Từ khi áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt, hiệu quả kinh tế đã tăng rõ rệt.

Anh Hưng đánh giá rất cao hiệu quả tưới nhỏ giọt cho cây Cam
Anh Hưng đánh giá rất cao hiệu quả tưới nhỏ giọt cho cây Cam

Dẫn chúng tôi ra thăm vườn cam áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt do Viện chuyển giao công nghệ, anh Lý Đình Hưng (đội 7, Nông trường Cao Phong, tỉnh Hòa Bình) đánh giá, điều dễ nhận thấy nhất giữa vườn cam của anh với các vườn tưới tràn sau 1 năm áp dụng tưới nhỏ giọt là cam phát triển đều, mọc chồi khỏe, ít sâu bệnh và ít bị sốc hơn do thường xuyên được giữ ẩm. Tưới nhỏ giọt không chỉ tiết kiệm 50% lượng nước, mà còn giảm chi phí nhân công, giúp chủ động tưới.

Theo anh Hưng, mặc dù là cây trồng siêu lợi nhuận nhưng cam cũng ngốn rất nhiều nước tưới. Đối với cam trưởng thành đã cho thu hoạch, thời gian tưới vào mùa khô phải kéo dài liên tục từ tháng 1 đến tháng 4 DL, cam non chưa cho thu hoạch thường phải tưới dài hơn, từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.

Trong khi đó, nguồn nước tưới cam chỉ có thể trông chờ vào các hồ chứa nhỏ trong vùng do khu vực này không thể khoan giếng ngầm. Tới tháng 3 hằng năm, các hồ nhỏ gần như cạn kiệt nước, các vườn cam chỉ trông vào nước trời. Vì vậy, việc tiết kiệm nước tại các hồ chứa là điều sống còn của vùng cam.

Trước đây vào mùa khô, cam thường phải tưới trung bình 1 lần/tuần. Mỗi lần tưới tràn, như vườn anh Hưng rộng 2,6 ha thường phải mất tối thiểu 2 ngày, mỗi ngày phải thuê 2 nhân công phụ trách 2 vòi tưới. Chỉ tính riêng tiền công, mỗi đợt tưới vườn, anh thường tốn 600 – 700 nghìn đồng tiền thuê người. Nếu tổng cộng tiền điện, mỗi đợt mất từ 2,5 – 3 triệu đồng chi phí tưới nước cho cam.

Vào mùa khô, đi thuê người tưới 150 – 200 nghìn đồng/ngày nhưng rất khó khăn. Bây giờ tưới nhỏ giọt, chỉ mở van một cái là hệ thống tự động tưới cho cả 2,6 ha, không cần phải mất tiền thuê nhân công và mỗi lần tưới cũng chỉ cần một ngày là xong.

Anh Hưng phân tích, nhiều người tưởng tưới nhỏ giọt thì lâu, nhưng thực ra lại nhanh hơn tưới tràn, bởi khi tưới tràn thì mỗi người phải cầm 1 vòi bơm dịch hết cây này sang cây khác, trong khi chỉ cần vặn van điều khiển một cái, hệ thống tưới nhỏ giọt có thể phục vụ một lúc cho hàng nghìn gốc cam, nên thời gian tưới ngắn hơn ½ so với tưới tràn.

Để đảm bảo thấm sâu đạt yêu cầu, hệ thống tưới có thể bố trí thành từng khu vực để tưới lặp lại 2h/lần. Sau 6 – 8 tiếng tưới nhỏ giọt, độ ngấm nước toàn vườn có thể đạt sâu trên 30 cm, sâu hơn cả so với tưới tràn như trước đây.

Tại vựa cam Cao Phong, ngoài hộ anh Hưng đã có một số nhà vườn khác mạnh dạn áp dụng công nghệ này. Ngoài ưu điểm tiết kiệm nước cho các hồ chứa cũng như chi phí tưới, tưới nhỏ giọt còn có thể giảm bớt công bón phân. Theo đó, đối với các loại phân bón dễ hòa tan như đạm, ka li, các loại phân bón dạng nước… có thể áp dụng bón cho vườn nhờ hệ thống tưới nhỏ giọt thông qua bồn pha chế gắn tại van điều chỉnh tổng.

Hiện nay, một hệ thống đường ống dẫn nước từ trạm bơm ở các hồ chứa tại Cao Phong thường sẽ phải phục vụ cho rất nhiều hộ khác nhau. Vào ban ngày, hộ nào cũng tranh thủ tưới nên phải xếp hàng chờ. Tuy nhiên với hệ thống tưới nhỏ giọt, chỉ cần vặn mở van, nhà vườn có thể tưới bất kỳ lúc nào, kể cả ngày hay đêm.

Lời kết

Theo Viện Khoa học thủy lợi VN, chi phí lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt khoảng gần 50 triệu đồng/ha. Tuổi thọ của hệ thống này có thể kéo dài từ 10 – 12 năm, tương đương với 1 chu kỳ cây ăn quả như cam, vì thế rất phù hợp với khả năng đầu tư của người dân.

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2016

Hiệu quả từ hệ thống tưới cây ăn trái 3 trong 1

Hệ thống tưới cây ăn trái này vừa có thể tưới nhỏ giọt vào gốc, vừa có thể tưới phun sương trên ngọn, giúp người nông dân trong thời kỳ bón phân cho cây ăn trái. 


Gia đình anh Nguyễn Thành Lộc, xã Hàm Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận) hiện có gần 7.000 trụ thanh long. Vì xã Hàm Thạnh là một trong những địa phương khô hạn, luôn đối mặt với tình trạng thiếu nước, nên gia đình anh phải luôn tính toán việc sử dụng nguồn nước cũng như hệ thống tưới sao cho tiết kiệm nhất mà không ảnh hưởng đến năng suất cây thanh long. Qua tìm hiểu, anh Lộc biết được hệ thống tưới 3 trong 1, nên đã mạnh dạn đầu tư ứng dụng mô hình này cho vườn nhà mình. 

Qua thời gian lắp đặt, vận hành và theo dõi trên vườn thanh long, anh Lộc cho biết: Vào mùa chong đèn trái vụ thì mô hình tưới này đúng là một giải pháp hữu hiệu cho thanh long vì hệ thống này có thể tưới cùng lúc 500 trụ. Vì cung cấp lượng nước ở mức tối thiểu, nên mỗi lần tưới tiết kiệm được khoảng 50% lượng nước, nhưng cây trồng vẫn phát triển tốt. Trước đây, nếu chỉ tính trong 6 tháng mùa nắng, gia đình phải tốn khoảng 100 triệu đồng để thuê nhân công tưới từ trụ thanh long, từ khi đó hệ thống tưới 3 trong 1, gia đình tiết kiệm được 70 - 80 triệu đồng. 

Không chỉ cây thanh long, mà các loại cây ăn trái khác cũng có thể áp dụng mô hình tưới này. Với cách lắp đặt đơn giản và vật tư của hệ thống này khá rẻ tiền, bà con nông dân có thể tự lắp đặt cho nhà vườn của mình.